(6)

Thiên Chúa Hằng Sống tỏ mình ra như là chính Vĩnh Cửu.

 

 

G

iáo Hội không ngừng tuyên xưng đức tin được diễn đạt trong những kinh tin kính cổ thời nhất: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất”. Những lời tuyên xưng này nói lên một cách ngắn gọn và tổng hợp chứng cớ mà vị Thiên Chúa của đức tin chúng ta, vị Thiên Chúa hằng sống và chân thật của mạc khải, đã tỏ ra cho thấy về chính mình, theo như Bức Thư gửi giáo đoàn Do Thái, khi nói với chúng ta “qua các tiên tri” và nhất là “qua Người Con” (Heb.1:1-2). Trong cuộc hành trình của mình, đối diện với những nhu cầu thay đổi của các thời đại, Giáo Hội đã đi sâu vào chân lý về Thiên Chúa, như được chứng thực nơi các Công Đồng khác nhau. Tôi muốn nói đến Công Đồng Chung Vaticanô I, một công đồng buộc phải nói lên giáo huấn của mình để đương đầu với các sai lầm của thế kỷ 19 về thuyết phiếm thần cũng như về thuyết duy vật là những lý thuyết sai lầm đã bắt đầu nổi lên từ thời ấy.

            Công Đồng Chung Vaticanô I dạy rằng: “Hội Thánh tin tưởng và tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa hằng sống và chân thật duy nhất là Hóa Công và là Chúa trời đất, Đấng toàn năng, hằng hữu, vô biên, khôn thấu, vô cùng trong trí khôn, trong lòng muốn và trong mọi sự thiện hảo; Đấng chỉ là một bản thể linh thiêng duy nhất, tuyệt đối đơn thuần và không thay đổi, phải được công nhận thật sự và chính yếu khác với thế giới, rất thánh hảo nơi chính mình và bởi chính mình, và cao vượt trên tất cả mọi sự ngoài chính mình Ngài hay có thể nghĩ tới” (Hiến Chế Dei Filiua. 1-4, DS 3001).

            Người ta có thể thấy ngay bản văn của công đồng bắt đầu cũng từ những mẫu đức tin cổ thời mà chúng ta đã lập lại: “Tôi tin kính Thiên Chúa... toàn năng... Đấng tạo thành trời đất”. Thế nhưng, đoạn văn này khai triển mẫu đức tin căn bản này hợp với giáo lý được chứa đựng trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Giáo Hội. Công Đồng Chung Vaticanô I đã liệt kê “các ưu phẩm” của Thiên Chúa bằng một thể thức hoàn toàn hơn các mẫu thức xưa kia.

            Với các “ưu phẩm” chúng ta có ý nói đến những đặc tính của “Hữu Thể” thần linh đã được mạc khải bộc lộ, cũng như đã được triết học hết sức nghiên cứu (x.Summa Theol., I, qq.3ff). Thánh Kinh diễn tả Thiên Chúa bằng việc dùng những tĩnh từ khác nhau. Chúng là những diễn tả của ngôn ngữ loài người, tự mình rất hạn hẹp, nhất là khi tìm cách diễn đạt một thực tại hoàn toàn siêu việt là chính Thiên Chúa.

            Đoạn văn được trích dẫn trên đây của Công Đồng Chung Vaticanô I đã xác nhận khả năng bất lực trong việc diễn đạt Thiên Chúa cách xứng hợp. Ngài là Đấng khôn thấu và khôn tả. Đức tin của Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội về Thiên Chúa chủ trương “tính chất khôn thấu” và “tính chất khôn tả” này. Thế nhưng những tính chất này tự chúng không chất chứa một thứ nhận biết tiêu cực như loại thần học gọi là apophatic theology. Loại thần học này quan niệm rằng ngôn ngữ loài người, cả thần học cũng vậy, chỉ có thể hay hầu như chỉ có thể cái Thiên Chúa không là mà thôi, vì không đủ những diễn đạt xứng hợp để cắt nghĩa cái Ngài là.

            Thế nên Công Đồng Chung Vaticanô I đã không giới hạn mình vào những câu phát biểu nói về Thiên Chúa “một cách tiêu cực”. Chẳng hạn, Công Đồng dạy rằng vị Thiên Chúa này là Đấng chính yếu khác với thế giới (a mundo distinctus re et essentia), là một vị Thiên Chúa hằng hữu. Thánh Kinh đã diễn tả sự thật này trong các đoạn khác nhau và bằng những cách khác nhau. Thí dụ, chúng ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đấng sống muôn đời đã tạo thành toàn thể vũ trụ” (18:1), và trong Sách Tiên Tri Đaniên: “Ngài là Thiên Chúa hằng sống, muôn đời tồn tại” (6:27).

            Những lời của Thánh Vịnh 102, được âm vang nơi Bức Thư gửi giáo đoàn Do Thái, cũng tương tự như vậy. Tác giả Thánh Vịnh viết: “Từ xưa Ngài đã đặt nến móng trái đất, và các tầng trời là công việc của tay Ngài. Chúng sẽ tiêu vong song Ngài bền vững; tất cả chúng sẽ tả tơi như chiếc áo mặc. Ngài thay chúng như thay áo và chúng sẽ qua đi; nhưng Ngài vẫn thế và tháng năm của Ngài vô cùng bất tận” (102:25-27). Một vài thế kỷ sau, tác giả Bức Thư gửi giáo đoàn Do Thái đã tiếp nối những lời Thánh Vịnh vừa trích: “Lạy Chúa, Ngài thật sự đã lập nên trái đất ngay từ ban đầu, và các tầng trời là công cuộc của tay Ngài; chúng sẽ tiêu vong còn Ngài tồn tại; tất cả chúng sẽ cũ kỹ như áo mặc; Ngài gấp chúng lại như như chiếc áo khoác và chúng sẽ bị đổi thay như chiếc áo; thế nhưng Ngài vẫn cứ thế và những tháng năm của Ngài sẽ không bao giờ cùng” (1:1-12).

            Vĩnh cửu ở đây là yếu tố chính yếu để phân biệt Thiên Chúa khỏi thế giới. Trong khi thế giới phải chịu đổi thay và qua đi, thì Thiên Chúa tồn tại trước việc qua đi của thế giới. Ngài là Đấng tất yếu và không đổi thay: “Ngài vẫn thế...”.

            Ý thức đức tin vào Thiên Chúa hằng hữu, Thánh Phaolô viết: “Vinh dự và hiển danh muôn đời cho vua các thế hệ, bất tử, vô hình, Thiên Chúa duy nhất” (1Tim.1:17). Sách Khải Huyền cũng nói lên chân lý này: “‘Ta là Alpha và là Omega’, Chúa là Thiên Chúa phán, ‘Đấng đang có, Đấng đã có và Đấng sẽ đến, Đấng Toàn Năng’” (Rev.1:8).

            Những sự kiện mạc khải này cũng nói lên niềm xác tín hợp lý mà người ta có được khi xét thấy rằng Thiên Chúa là một Hữu Thể tự tại, bởi thế Ngài cũng là một Hữu Thể tất yếu, một Hữu Thể vĩnh hằng. Vì Ngài không thể không hiện hữu, không thể có khởi sự hay hoàn thành, cũng không có các thời khắc tiếp nối nhau ở tác động hiện hữu duy nhất và vô cùng. Lý trí lành mạnh và mạc khải trùng nhau lạ lùng ở điểm này. Là Thiên Chúa, tức là toàn hữu (ipsum Esse subsistens), sự vĩnh cửu của Ngài, “được ghi khắc nơi ngôn từ hữu thể”, phải được hiểu như là “sở hữu một sự sống bất tận không phân chia, toàn hảo và đồng loạt”, bởi thế sự vĩnh cửu của Ngài cũng là một ưu phẩm của hữu thể tuyệt đối “ở ngoài thời gian”.

            Sự vĩnh cửu của Thiên Chúa không qua đi theo thời gian của thế giới tạo thành này. “Nó không trùng hợp với hiện tại”. Nó không có trước nó hay “kéo dài” nó đến vô cùng. Nó ở ngoài và ở trên “hữu thể”. Sự vĩnh cửu, với tất cả những gì là mầu nhiệm về Thiên Chúa, một cách nào đó, bao gồm cả cái “ở ngoài” và cái “ở trên”, bao gồm tất cả những gì “từ bên trong” lệ thuộc thời gian, lệ thuộc đổi thay và lệ thuộc tình cờ. Cần nhớ lại những lời Thánh Phaolô nói tại Thượng Nghị Trường  Nhã Điển: “Nơi Ngài... chúng ta sống, động và có” (Acts 17:28). Bằng kiểu nói bóng bẩy: “ở bên ngoài” thứ tự, chúng ta cùng nhau xác nhận sự siêu việt của Thiên Chúa trên các sự vật và của vĩnh cửu trên thời gian. Chúng ta phải nhận thực và tái xác nhận rằng Thiên Chúa là một Hữu Thể làm nên căn tính cho chính hữu thể của các sự vật, và vì thế cho cả giòng thời gian liên tục trôi qua, không một giây phút nào vượt ra ngoài vòng mức vĩnh cửu của Ngài.

            Công Đồng Chung Vaticanô I đã chứng thực đức tin của Giáo Hội nơi Thiên Chúa hằng sống, chân thật và vĩnh cửu. Ngài vĩnh cửu vì Ngài toàn hữu, một thực tại không được hiểu như là một tổng hợp của các phân mảnh hay của các “phân tử” nơi hữu thể là những gì đổi thay theo thời gian. Những bản văn Thánh Kinh được trích dẫn đã rõ ràng nói lên điều này. Thực tại toàn hữu chỉ có thể được hiểu là vĩnh cửu mà thôi, tức là, sự sống riêng của Thiên Chúa như một sở hữu toàn thể và bất phân chia hữu thể đó. Trong ý nghĩa này, Thiên Chúa là vĩnh cửu: là một “Hiện Tại”, một “Hiện Diện”, tự tại và bất biến. Kiểu hiện hữu này, theo căn tính, khác hẳn với kiểu hiện hữu nơi các tạo vật là các hữu thể “tùy thuộc”.

            Thiên Chúa hằng sống, Đấng tỏ mình ra, là Thiên Chúa vĩnh cửu là như thế. Đúng hơn, chúng ta hãy nói rằng Thiên Chúa là chính vĩnh cửu. Sự hoàn toàn đơn thuần (omnino simplex) của Hữu Thể thần linh đòi phải nói lên cách diễn đạt này.

            Khi chúng ta dùng ngôn ngữ loài người mà nói: “Thiên Chúa là vĩnh cửu”, là chúng ta có ý nói đến một ưu phẩm của Hữu Thể thần linh. Bởi không có một ưu phẩm nào của Thiên Chúa thực sự khác hẳn với chính yếu tính của Thiên Chúa, (trong khi các phẩm tính của loài người lại khác biệt hẳn với con người có các phẩm tính này), nên khi nói: “Thiên Chúa vĩnh cửu” là chúng ta muốn xác nhận: “Thiên Chúa là vĩnh cửu” vậy.

            Đối với chúng ta là thành phần bị chi phối bởi thời không, thì thực tại vĩnh cửu này khôn thấu như chính yếu tính thần linh. Tuy nhiên, cũng về phương diện này mà thực tại vĩnh cửu ấy làm cho chúng ta thấy được sự vô cùng cao cả và uy linh của Thiên Chúa. Chúng ta cảm thấy tràn đầy niềm vui khi nghĩ đến Hữu-Thể-Vĩnh-Cửu này, một Hữu-Thể-Vĩnh-Cửu bao gồm tất cả hữu thể được tạo thành và tùy thuộc, kể cả chính hữu thể nhỏ bé của chúng ta, mọi tác động của chúng ta, mọi giây phút của đời sống chúng ta.

“Trong Ngài chúng ta sống, động và có”.

 

            (Bài Giáo Lý ngày 4 tháng 9 năm 1985)